TPO - Bệnh thoái hoá
khớp (còn gọi là bệnh hư khớp) là một bệnh mạn tính, gây thoái hoá và biến dạng
khớp do sự phá huỷ sụn khớp và hệ thống bao khớp - dây chằng, thường gặp ở các
khớp chịu sức nặng của cơ thể.
Các thể bệnh hư khớp
Thoái hoá khớp có thể
nguyên phát hoặc thứ phát.
Thoái hoá khớp nguyên
phát do lão hoá của mô khớp, hoặc do sụn khớp được tưới máu và nuôi dưỡng kém,…
dẫn đến mất tính đàn hồi và khô cứng. Khi hoạt động, sụn chạm vào đầu xương, gây
hoại tử ở nơi chịu áp lực mạnh nhất. Bệnh này chỉ gặp ở người trên 4o tuổi.
Khác với thoái hoá khớp
nguyên phát, thoái hoá khớp thứ phát thường do sự lão hoá sớm của sụn khớp,
xuất hiện sau chấn thương làm tổn thương diện khớp, hoặc từ những chấn thương
nhỏ nhưng tác động nhiều lần, khớp hoạt động quá tải; do di chứng của viêm khớp
nhiễm khuẩn, viêm đa khớp dạng thấp…
Những người béo phì cũng
thường mắc chứng hư khớp do quá nặng cân, các khớp luôn trong tình trạng bị sức
ép lớn. Những thể thứ phát này thường trầm trọng hơn những thể nguyên phát.
Ngoài ra, những yếu tố về thời tiết, khí hậu… cũng là điều kiện thuận lợi cho
bệnh xuất hiện.
Thoái hoá khớp nguyên
phát ở các khớp được xếp theo thứ tự “ưu tiên” như sau: Khớp liên đốt sống
(trên dưới 50% các trường hợp), khớp gối (13%), khớp háng (8%), khớp liên đốt
ngón tay (6%) và các khớp khác (20%).
Tổn thương ở khớp bắt
đầu từ những hoại tử của sụn khớp, sau đó là sự phá huỷ hệ thống trượt ở những
vùng tỳ đè của xương dưới dạng một dải xơ và đường viền xung quanh khớp, các
gai xương ở ngoại vi khớp. Bao hoạt dịch dày lên, hình thành những đường vân,
có thể sụn hoá. Sụn hoá của bao hoạt dịch rơi vào ổ khớp gây cản trở cho hoạt
động của khớp. Các xơ co kéo gây nên tình trạng cứng khớp.
Bệnh thoái hoá khớp nguyên
phát hay gặp ở người 40-50 tuổi, và ở phụ nữ sau khi mãn kinh, nhưng điều nguy
hiểm là thoái hoá khớp hầu như không có triệu chứng. Các dấu hiệu chỉ xuất hiện
khi xương và hệ thống bao khớp hoạt dịch bị tổn thương thực sự. Bệnh thường
khởi đầu âm ỉ, tiến triển chậm với những giai đoạn được cải thiện theo cảm nhận
chủ quan. Thể điển hình, người bệnh đau khớp vào buổi sáng, sau khi ngủ dậy;
đau giảm sau khi khớp được hoạt động và hết đau khi nghỉ ngơi. Khớp không sưng
và không có các dấu hiệu toàn thân.
Khi khám, phát hiện các
dấu hiệu: Hạn chế cử động, các cơ chi phối hoạt động của khớp bị teo và co cứng
tăng trương lực; có tiếng lục cục trong khớp khi cử động; có thể sờ thấy đường
viền khớp và gai xương. Xét nghiệm cho thấy: Hoạt dịch trong, quánh, chứa dưới
3.000 bạch cầu/1mm3; và dưới 25% là bạch cầu đa nhân trung tính; tốc độ máu
lắng bình thường; chụp Xquang không có sự tương xứng giữa triệu chứng chủ quan
và những tổn thương trên phim.
Tuỳ theo giai đoạn có
thể thấy hình ảnh hẹp khe khớp với sự phá huỷ một phần hay hoàn toàn sụn khớp,
ăn mòn diện khớp ở vùng tỳ đè.
Các dấu hiệu của loãng
xương cũng có thể được phát hiện nếu sử dụng những phương pháp đặc biệt để phát
hiện sớm các tổn thương của khớp, như: chụp cắt lớp, cộng hưởng từ, soi ổ khớp…
Chẩn đoán thoái hoá khớp
dựa vào những yếu tố, như: Đau khớp tăng khi hoạt động và giảm khi nghỉ ngơi;
không có triệu chứng toàn thân như sốt…; những dấu hiệu viêm tại chỗ rất ít
hoặc không có; dịch ổ khớp không có biểu hiện viêm, không có mủ; chụp Xquang
thấy hẹp khớp, ăn mòn diện khớp…
Cần lưu ý phân biệt
thoái hóa khớp với viêm đa khớp dạng thấp: Viêm khớp tại chỗ rất rõ (sưng, nóng
đỏ, đau), dịch ở khớp biểu hiện viêm; tốc độ lắng máu tăng…
Điều trị?
Nhìn chung tổn thương ổ
khớp do hư khớp là không thể thay đổi nhưng tiến triển chậm. Ở những khớp chưa
cứng hoàn toàn, việc điều trị có thể giảm được nhưng cản trở chức năng.
Thoái hoá khớp có thể
điều trị bằng hai phương pháp:
- Điều trị nội khoa: Ở
giai đoạn đau khớp, người bệnh cần phải nghỉ ngơi, tránh tất cả những hoạt động
gây đau. Dùng vật lý trị liệu để làm tăng tưới máu tại chỗ cho khớp.
Trong giai đoạn đau khớp
cấp, bất động khớp, thậm chí bó bột là điều rất cần thiết (chỉ nên bất động
trong thời gian ngắn để tránh cứng khớp). Ngay sau khi hết đau cấp, phải tập
vận động khớp nhẹ nhàng, phù hợp.
Để dự phòng những tư thế
xấu (khớp gối vẹo vào trong hoặc quay ra ngoài), hoặc để giảm đau, có thể sử
dụng các loại: Băng, nịt, nẹp, khung đỡ,… hay đơn giản như là một chiếc gậy,
một chiếc nạng nếu bị hư khớp chi dưới. Sử dụng thuốc, những thuốc cơ bản là
thuốc chống viêm giảm đau, như aspirin và thuốc không có steroid (ibuprofen,
diclofenac, indometacin…). Những thuốc an thần, đặc biệt nhóm diazepam có thể
sử dụng trong trường hợp đau do co cơ, hoặc người bệnh quá lo lắng, nhưng không
được dùng dài ngày vì dễ gây nghiện.
- Điều trị ngoại khoa:
Có ba loại phẫu thuật được áp dụng: Đó là, phẫu thuật dự phòng nhằm lập lại
tình trạng bình thường các khớp có nguy cơ bị thoái hoá như trật khớp háng bẩm
sinh, tiêu chỏm xương, nhuyễn sụn xương bánh chè, lệch trục đầu gối…; Phẫu
thuật bảo tồn khi khớp chưa bị hư hỏng nặng, có thể sửa chữa đưa về điều kiện
cơ học của chức năng bình thường; Và phẫu thuật thay thế trong trường hợp khớp
quá hư hỏng, không thể phục hồi được, có thể thay thế từng phần, thậm chí toàn
bộ khớp bằng khớp nhân tạo.
BS. Lam
Giang - Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ y học VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét