Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015

Chuyện gì xảy ra nếu uống mật ong mỗi ngày?

      Nhiều người có thể thắc mắc rằng, mật ong ngọt, độ đường cao, làm sao việc uống liên tục lại có thể lợi cho sức khỏe?
 
         Trên thực tế, lợi ích của mật ong đã được khoa học chứng minh. Việc uống một cốc nước ấm pha mật ong mỗi ngày không những giúp bạn tăng cường sức khỏe mà còn có thể phòng chống bệnh tật rất tốt. Dưới đây là những gì sẽ xảy ra nếu như bạn uống nước mật ong đều đặn:

1. Cơ thể đỡ đầy hơi
         Nếu như bạn bị chướng bụng, đầy hơi, hay bị ợ… thì một cốc nước mật ong ấm sẽ giúp trung hòa khí gas trong cơ thể. Bạn sẽ cảm thấy người nhẹ bẫng nửa phần ngay tức khắc.

2. Tăng cường hệ thống miễn dịch
          Mật ong có khả năng tăng cường sức đề kháng một cách tuyệt vời, do đó, hãy đảm bảo rằng bạn mua được đúng mật ong “chuẩn”, hữu cơ để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc tiêu diệt vi khuẩn, bổ sung enzyme, vitamin và khoáng chất cho cơ thể.

3. Thải độc tố
         Mật ong và nước ấm là một trong những sự kết hợp lý tưởng nhất để thải loại độc tố ra khỏi cơ thể người. Và thêm một mẹo nữa: Cho thêm chanh sẽ càng tăng cường chức năng của hệ bài tiết hơn.

4. Da trở nên mướt hơn
         Đúng thế, mật ong là một chất chống oxy hóa tự nhiên, giúp thải độc tố, diệt vi khuẩn nên có thể giúp da bạn sạch hơn bao giờ hết.

5. Bạn sẽ giảm cân
         Câu hỏi đầu tiên của bạn là nhưng Mật ong có chứa ĐƯỜNG cơ mà? 
          Đúng, nhưng đường trong mật ong hoàn toàn khác với đường trắng, nó là đường tự nhiên. Đường tự nhiên sẽ thỏa mãn nhu cầu thèm ngọt hàng ngày của bạn, khiến bạn không còn lảng vảng đến bánh, trái, kem, chè và coca cola nữa. Trên thực tế, nếu như bạn uống nước mật ong thay cho nước ngọt đóng hộp, bạn sẽ hấp thụ lượng calo ít hơn tới 64%.

6. Bạn sẽ giảm đau họng
            Có lý do đằng sau việc nước mật ong ấm là món đồ uống được ưa thích trong mùa đông, bởi nó có thể làm dịu cơn đau họng và khiến cơ thể bạn ấm hơn. Mật ong là phương thuốc tự nhiên chữa các bệnh cảm nhiễm thông thường, do đó, lần tới nếu như bị cảm lạnh, hãy uống mật ong ngay và luôn.

7. Cân bằng đường huyết
        Như đã nói ở trên, mật ong có chứa đường tự nhiên. Sự kết hợp giữa fructose và glucose thật sự giúp cho cơ thể cân bằng đường huyết, tránh tình trạng thiếu máu, hạ huyết áp, lại còn giúp giảm cholesterol trong máu nữa chứ!

8. Giảm nguy cơ đau tim
         Chất chống oxy hóa trong mật ong cũng rất có ích trong việc ngăn chặn và làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim ở người. Các nghiên cứu đã cho thấy mật ong làm chậm lại quá trình oxy hóa các cholesterol xấu trong máu – đây vốn là nguyên nhân đầu bảng dẫn đến các vụ đau tim, thậm chí là trụy tim.
  
                                                                               Thiên Ý (achauthoibaonew)


Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

5 khủng hoảng tâm lý của người bị ung thư

              Bệnh nhân ung thư thường trải qua 5 giai đoạn: Phủ nhận, phẫn nộ, thương lượng, trầm cảm, chấp nhận. Nhiều người lẩn tránh việc điều trị vì lo lắng.

              Theo kết quả đánh giá nhanh của Bộ Y tế về chăm sóc giảm nhẹ tại 5 tỉnh thành, bệnh nhân ung thư phải chịu đựng nặng nề về tâm lý và tình cảm. 48% cảm thấy hoàn toàn hoặc một phần không hài lòng về cuộc sống của họ, 87% bệnh nhân ung thư buồn hoặc rất buồn. 64% người chăm sóc nói rằng họ dành hơn 10 giờ mỗi ngày để chăm sóc cho thành viên trong gia đình bị ung thư. Người chăm sóc bệnh nhân ung thư mất 20-24 giờ một ngày nên cảm thấy lo lắng hoặc trầm cảm.
Bác sĩ Lê Văn Đạt Nhân, Bệnh viện Ung bướu TP HCM cho biết, tất cả bệnh nhân đều có phản ứng về cảm xúc, tâm lý đối với bệnh ung thư. Ung thư có thể tác động đến bệnh nhân ở nhiều khía cạnh như cảm giác về bản thân, lòng tự trọng hoặc ý thức về giá trị bản thân, niềm tin tôn giáo… Một số người đấu tranh với những cảm xúc khác nhau hoặc chuyển qua các giai đoạn cảm xúc khác nhau, không phải lúc nào cũng theo thứ tự có thể dự đoán được. Những cảm xúc này có thể xuất hiện đột ngột hoặc tồn tại dai dẳng.
             Những phản ứng cảm xúc của bố mẹ hoặc anh chị em bệnh nhân đang sắp qua đời đòi hỏi sự chú ý đặc biệt vì chúng có ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh nhân. Những bệnh nhân, thân nhân ở các giai đoạn khác nhau của bệnh ung thư có thể sẽ có các phản ứng cảm xúc khác nhau. Do đó cần xác định rõ giai đoạn bệnh để chọn phác đồ điều trị thích hợp cũng như hỗ trợ tâm lý cho bệnh nhân một cách thích hợp.

Diễn biến tâm lý chung của bệnh nhân ung thư thường trải qua 5 giai đoạn

Phủ nhận thường chỉ là một phản kháng tạm thời. “Không, tôi khỏe mà”; “Chuyện đó không thể xảy ra với tôi được”. Sau đó, người bệnh nhanh chóng nhận ra đang phải đối mặt với một sự việc rất trầm trọng. 

Giai đoạn thứ hai phẫn nộ, người bệnh bắt đầu nhận ra rằng không thể tiếp tục phủ nhận mãi được. Họ có thể nổi cơn thịnh nộ và đố kỵ làm cho việc giao tiếp với họ là một thách thức rất lớn. “Tại sao là tôi, không công bằng chút nào hết?”; “Sao mà nó có thể xảy ra cho tôi được? “; “Ai gây ra chuyện này?”. Những cá nhân nào càng mạnh mẽ trong cuộc sống thì càng có khuynh hướng bùng phát sự phẫn nộ và đố kỵ. 

Giai đoạn thứ ba thương lượng liên quan đến sự hy vọng mà người bệnh mong rằng có thể  kéo dài hoặc trì hoãn cái chết. Thông thường họ tìm mọi cách thương lượng để kéo dài cuộc sống. “Chỉ cần cho tôi sống đến ngày con tôi tốt nghiệp”; “Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể được để sống thêm vài năm nữa”; “Tôi sẽ thưởng cho 2 cây vàng nếu ai cứu sống được tôi”. “Tôi hiểu là tôi sẽ chết nhưng chỉ mong có thêm thời gian hơn nữa”...

Giai đoạn thứ tư trầm cảm, người bệnh hiểu rằng cái chết là chắc chắn. Vì thế họ có thể trở nên im lặng, từ chối gặp người viếng thăm, dành nhiều thời gian để khóc và đau buồn. Quá trình này làm cho người bệnh cắt đứt với những sự việc liên quan đến tình thương yêu và bệnh tật. Sự cắt đứt này có tác dụng làm nguôi ngoai nên trong giai đoạn này không nên tìm cách làm vui cho người bệnh cho mà để cho nỗi buồn được diễn tiến. “Tôi buồn quá, tôi sắp chết rồi. Tại sao phải quan tâm đến mấy cái chuyện khác làm gì?”; “Tôi sắp mất người thân yêu nhất của mình rồi”.

Giai đoạn cuối chấp nhận, người bệnh bắt đầu chấp nhận cái chết sẽ đến với mình. “Rồi cũng sẽ xong thôi”; “Tôi không thể chống lại được nó, tốt nhất là nên chuẩn bị đón nhận nó”.

Diễn tiến tâm lý theo quá trình chẩn đoán và điều trị ung thư
           Giai đoạn đi thăm khám bệnh: Nhiều bệnh nhân chỉ nghĩ đến ung thư, nhắc đến ung thư đã hoảng hốt mất ăn, mất ngủ. Đọc sách báo rồi vận vào những triệu chứng của mình, thế là lo nghĩ luẩn quẩn. Bên cạnh đó, nhiều người chủ quan, mặc dù bệnh đã lở loét, di căn hạch mới bỏ công việc đi khám bệnh thì đã quá muộn rồi. Bệnh nhân vừa lo âu vừa hy vọng việc điều trị có kết quả tốt.
          Giai đoạn chẩn đoán bệnh: Khi biết mình bị ung thư bệnh nhân thường có những phản ứng sau:
- Choáng váng/mất lòng tin. Phản ứng này đôi khi nặng nề tới mức không thể nói được gì thêm về kế hoạch điều trị.
- Chối bỏ sự thật không tin là mình bị bệnh.
- Thất vọng và chán chường: Nỗi thất vọng có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào sau khi chẩn đoán ung thư. Bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng thần kinh thực vật: Chán ăn, mất ngủ và các triệu chứng tâm thần như thất vọng, mất tập trung, hoang tưởng, tội lỗi cho thấy là nỗi thất vọng sâu sắc. Thêm nữa, bệnh nhân có thể từ chối điều trị nếu họ nghĩ là không tránh được cái chết. Trong trường hợp này, cần phải tham khảo chuyên khoa tâm thần càng sớm càng tốt.
Giai đoạn điều trị ban đầu: Mỗi phác đồ điều trị ung thư đều mang tới những thách thức tâm lý riêng.

- Phẫu thuật:
          Hầu hết các bệnh nhân quan niệm phẫu thuật là phương pháp chữa khỏi tốt nhất. Tuy nhiên, do tính chất tàn phá, phẫu thuật làm cho bệnh nhân sợ hãi hoặc lo ngại. Hoặc có niềm tin rất sai lầm là “ung thư mà đụng đến dao kéo là chết”. Bệnh ung thư nếu không phẫu thuật để lấy khối u ra (trừ các loại ung thư hệ tạo huyết) thì gần như sẽ chết. 
        Các trạng thái tâm lý thường gặp như sợ hãi, lo lắng do bệnh nhân sợ đau và sợ tử vong hoặc nhẹ hơn là sự thay đổi hình thể sau mổ. Bệnh nhân cũng dễ có xu hướng lẩn tránh việc phẫu thuật. Một số bệnh nhân tạo ra mọi cớ trì hoãn, chối bỏ phẫu thuật vì quá sợ. Bệnh nhân cũng có thể thất vọng sau mổ, phản ứng dằn vặt sau mổ kéo dài và nặng nề. Những phản ứng dằn vặt nặng nề có thể gây ra các triệu chứng giống như nỗi thất vọng lớn lao đòi hỏi có những can thiệp về tâm thần.

- Xạ trị:
            Bệnh nhân có cảm giác sợ khi phải đối diện với máy móc và các tác dụng phụ, lo sợ tia phóng xạ. Đây là biểu hiện hết sức bình thường. Những lời giải thích về nguyên tắc cơ bản của điều trị tia xạ sẽ giúp sửa chữa được quan niệm sai lệch đó. Bàn bạc chi tiết về các tác dụng phụ và các điều trị tác đụng phụ sẽ làm bệnh nhân hết sợ. Nhiều khi bệnh nhân sợ thầy thuốc, gia đình hoặc cơ sở y tế bỏ mặc “hết trách nhiệm”, hoặc bị bỏ rơi giữa các công đoạn điều trị. Tia xạ không ảnh hưởng đến người chung quanh vì một số bệnh nhân lo ngại sẽ ảnh hưởng đến người thân như bồng ẵm em bé… 

- Hóa trị:
        Hiện nay, nỗi sợ điều trị hóa chất cùng với tác dụng phụ của nó còn hơn cả nỗi sợ ung thư. Đa số bệnh nhân đều lo lắng và sợ hãi. Sợ rụng tóc có thể hàng xóm hoặc người chung quanh biết sẽ kỳ thị, dè bỉu… Việc rụng tóc có thể xảy ra nhưng các phác đồ hóa trị mới hiện nay không gây rụng tóc. Có thể mang tóc giả trong thời gian hóa trị, vài tháng sau hóa trị tóc sẽ mọc lại bình thường. Cần chú ý điều trị kịp thời các biến chứng vì nhiều bệnh nhân bỏ điều trị do các tác dụng phụ nặng nề. 

Giai đoạn cuối
        Hầu hết các bệnh nhân ý thức được tiến trình bất khả kháng của bệnh tật ở giai đoạn cuối, dù có được giải thích hay không. Một số người sợ hãi có thể phải gửi đi khám tâm thần và điều trị tâm thần hỗ trợ đúng lúc.
Sợ bị bỏ rơi: Thông thường bệnh nhân hay lo lắng ung thư ở giai đoạn muộn sẽ không được quan tâm đặc biệt của các nhân viên y tế. Cần đảm bảo cho bệnh nhân thấy thầy thuốc và đội ngũ y tế vẫn tiếp tục chăm sóc. Khi bệnh nhân gần chết thái độ tích cực và hỗ trợ của thầy thuốc làm giảm nhẹ nỗi đau buồn của bệnh nhân và gia đình.
Lo lắng biến dạng cơ thể và mất phẩm giá: Những tác động về tinh thần và thể xác của người đang hấp hối gây ra nhiều mối lo lắng khác nhau. Ung thư và việc điều trị ung thư có thể là nhân đạo, nhưng cũng cần nhớ rằng: người ta vẫn có quyền chết “vinh hiển” (nhất là bệnh nhân đã hôn mê).
Sợ đau: Ở giai đoạn cuối của điều trị, thuốc giảm đau thích hợp là tối thượng.
Sợ bỏ dở công việc hoàn thành: Mối quan tâm này gồm cả những vấn đề thực tế và tâm lý. Nỗi sợ này thay đổi theo giai đoạn trưởng thành. Ví dụ người cha, người mẹ trẻ lo con thơ dại, trong khi đó một số bệnh nhân lo tới những vấn đề gia đình, kinh tế chưa giải quyết xong… Trong trường hợp bệnh tật, họ luôn luôn lo lắng dẫn tới trầm cảm, rối loạn sức khỏe.
        Theo bác sĩ Nhân, bệnh nhân ung thư cần được động viên tinh thần người bệnh và cung cấp thông tin điều trị đúng đắn. Tránh đi khám các thầy lang vườn lang băm mạnh miệng tuyên bố chữa hết bệnh ung thư bằng các phương pháp điều trị không chính thống, chỉ làm chậm trễ điều trị và tăng giai đoạn của bệnh ung thư cũng như tốn kém không cần thiết. Giai đoạn cuối là giai đoạn mà đa số các bệnh viện hiện nay "bỏ rơi" bệnh nhân. Rất nhiều đau khổ xuất hiện trên bệnh nhân và gia đình ở giai đoạn này vì họ phải đối mặt với cái chết. Cần liên hệ với các bệnh viện có khoa chăm sóc giảm nhẹ để được chăm sóc cuối đời tích cực.


                                                                                               Lê Phương

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Nguyên nhân chính gây ung thư ĐẠI TRỰC TRÀNG

Kẻ giấu mặt" có thể gây ung thư nhiều người mắc nhưng chủ quan
 


       Đa số polyp đại - trực tràng là lành tính nhưng một số có khả năng hóa thành ác tính (ung thư).

       Đại tràng là phần ruột cuối cùng của ống tiêu hoá (còn được gọi là ruột già), dài 1 – 1,5m, hình chữ U ngược, bắt đầu từ manh tràng đến đoạn cuối cùng là trực tràng và tận hết ở hậu môn. Polyp đại - trực tràng không phải là u nhưng là một tổn thương có hình dạng như khối u, có cuống hoặc không có cuống, do niêm mạc đại tràng và tổ chức dưới niêm mạc tăng sinh tạo thành. Đa số polyp là lành tính nhưng một số có khả năng hóa thành ác tính (ung thư).

1. Các dạng polyp đại - trực tràng
       Polyp đại trực tràng thường gặp nhất là 2 dạng: polyp tăng sản và poltp tuyến. Các dạng polyp khác cũng có thể gặp ở đại - trực tràng nhưng ở tỉ lệ rất thấp.
- Polyp tăng sản: Polyp tăng sản thường có kích thước rất nhỏ, hay gặp ở đoạn cuối đại tràng (trực tràng và đại tràng sigma). Loại polyp này rất ít khi trở thành ác tính.
Thông thường, người ta rất khó phân biệt giữa polyp tăng sản với polyp tuyến nếu chỉ dựa trên hình ảnh thấy được qua nội soi nên thường cắt bỏ cả loại polyp này và gửi đi làm tế bào học như các polyp tuyến.
- Polyp tuyến: 2/3 polyp đại tràng là polyp tuyến, đa số không phát triển thành ung thư mặc dầu chúng đều rất có tiềm năng. Polyp tuyến thường được phân loại theo kích thước, hình dáng bên ngoài và đặc điểm mô học của chúng qua sinh thiết.
           Theo các nhà khoa học, polyp tuyến càng lớn thì khả năng ung thư hóa càng cao, do đó các polyp lớ cần phải được sinh thiết hoặc cắt bỏ hoàn toàn đồng thời gửi đi làm giải phẫu bệnh học để kiểm tra khả năng ung thư.
Hình ảnh polyp đại - trực tràng.

2. Những polyp đại - trực tràng có nguy cơ ung thư hóa
          Những polyp đơn độc ở đại trực tràng có thể là những khối u lành tính và tồn tại trong nhiều năm mà không ảnh hưởng đến sức khỏe. Tuy nhiên, chúng cũng tiềm ẩn nguy cơ biến thành ung thư đại - trực tràng.
          Polyp có chân rộng, không có cuống thì khả năng ác tính cao hơn là những polyp có chân nhỏ hay cuống dài lòng thòng. Càng nhiều polyp thì khả năng ung thư hóa càng cao.
         Trường hợp đa polyp đại tràng do di truyền thì khả năng trở thành ung thư là 100%. Với trường hợp này, bệnh polyp đại - trực tràng cần được phát hiện và cắt bỏ trước khi trở thành ác tính.

3. Những người dễ có nguy cơ bị polyp đại - trực tràng
         Bất kỳ ai cũng có thể bị bệnh polyp đại - trực tràng, nhưng một số người có cơ địa dễ mắc bệnh hơn bao gồm:
- Người từ 50 tuổi trở lên.
- Người từng cắt bỏ polyp đại - trực tràng.
- Tiền sử gia đình bị mắc polyp.
- Có thành viên trong gia đình bị ung thư ruột già (ung thư ruột kết).
- Người từng mắc bệnh ung thư buồng trứng hoặc tử cung trước 50 tuổi.
Ngoài ra, còn có những nguyên nhân sau khiến bạn dễ mắc bệnh:
- Ăn nhiều thực phẩm chứa hàm lượng chất béo cao.
- Hút thuốc lá
- Uống rượu
- Lười vận động

- Bị stress thường xuyên.

                                                Thái Phong (T.H) 
  Xem: http://soha.vn/song-khoe/ke-giau-mat-co-the-gay-ung-thu-nhieu-nguoi-mac-nhung-chu-quan-20150718090538969.htm

Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Phát hiện NGUYÊN NHÂNgiúp UNG THƯ DI CĂN


            Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã nhận diện được một phân tử then chốt giúp ung thư có thể di căn tới các bộ phận khác trong cơ thể, mở đường cho sự ra đời của những phương pháp chữa trị ung thư mới.


Phân tử DNA-PKcs được phát hiện giữ vai trò then chốt trong việc kích hoạt các khối u ung thư di căn khắp cơ thể. Ảnh minh họa: Corbis
          Ung thư là một căn bệnh sống dựa vào sự phát triển của tế bào. Trong hầu hết các trường hợp, các khối u chỉ trở nên nguy hiểm chết người một khi chúng đã di căn hoặc lan truyền từ vị trí ban đầu tới những phần khác trong cơ thể.
         Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Thomas Jefferson (Mỹ) hiện tuyên bố, họ vừa khám phá ra một phân tử đơn lẻ, dường như là "yếu tố then chốt" thúc đẩy sự di căn ở bệnh ung thư tuyến tiền liệt.
          Giáo sư, tiến sĩ tiết niệu Karen Knudsen, một thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết: "Tìm ra một cách tạm dừng hoặc ngăn chặn sự di căn ung thư đã được chứng minh là rất khó. Chúng tôi phát hiện, một phân tử có tên gọi DNA-PKcs có thể mang tới một phương tiện triệt hạ những con đường phát triển chính yếu, kiểm soát sự di căn trước khi quá trình này bắt đầu".
         Sự di căn được coi là giai đoạn cuối của ung thư. Khối u trải qua hàng loạt thay đổi về ADN - đột biến - khiến các tế bào di động hơn, cho phép chúng xâm nhập vào đường máu. Các tế bào cũng trở nên "nhớt dính" hơn, giúp chúng neo bám vào các vị trí mới, chẳng hạn như xương, phổi, gan hoặc não.
         Những quá trình dẫn đến sự di căn rất phức tạp, bao gồm nhiều chuỗi phản ứng hóa sinh khác nhau, nhưng nghiên cứu mới chỉ ra rằng, chỉ một phân tử nằm ở vị trí cội rễ của rất nhiều trong số chúng. Phân tử đó là DNA-PKcs, một kinaza sửa chữa ADN.
Kinaza là một dang enzym chuyên tái gắn các dải ADN bị đứt gãy hoặc đột biến trong một tế bào ung thư, đóng vai trò như chất keo đối với nhiều mảnh đứt vỡ của ADN, do đó duy trì sự sống cho một tế bào thông thường cần phải tự hủy.
        Các nghiên cứu trước đây cho thấy, DNA-PKcs có liên quan đến việc kháng điều trị ở bệnh ung thư tuyến tiền liệt, một phần vì nó sẽ sửa chữa các tổn thương thường đe dọa sự sinh tồn của các khối u, do xạ trị và các phương pháp chữa trị khác gây ra.
         Trong nghiên cứu mới, giáo sư Knudsen và các cộng sự khám phá ra rằng, DNA-PKcs còn có các vai trò khác, vươn xa hơn ở bệnh ung thư: đảm nhận vị trí điều phối then chốt của một mạng lưới kích hoạt toàn bộ các quá trình di căn. Đặc biệt, DNA-PKcs điều biến một enzym khác, cho phép nhiều tế bào ung thư trở nên di động cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình trọng yếu khác như sự di trú và xâm nhập tế bào.
          Thông qua các thử nghiệm ở chuột mang bệnh giống ung thư tuyến tiền liệt ở người, nhóm của tiến sĩ Knudsen chứng minh, họ có thể vô hiệu hóa sự di căn của các khối u ác tính bằng cách sử dụng các yếu tố ức chế sự sản sinh hoặc hoạt động chức năng của DNA-PKcs. Ngoài ra, chất ức chế DNA-PKcs cũng làm giảm quy mô khối u nói chung ở các vị trí di căn.
           Khi phân tích các mẫu bệnh phẩm từ bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy, sự gia tăng lượng kinaza DNA-PKcs là dấu hiệu mạnh mẽ giúp phỏng đoán các quá trình di căn đang phát triển và kết quả điều trị kém.
           Các nhà nghiên cứu hy vọng, khám phá mới sẽ giúp họ đạt được mục tiêu phát triển một loại thuốc có thể ngăn chặn các khối u ung thư tuyến tiền liệt lây lan. Nhóm cũng kỳ vọng, khám phá rốt cuộc sẽ mở đường cho sự ra đời của những phương pháp điều trị hiệu quả mới đối với các dạng ung thư khác.

                                                                                    Tuấn Anh(Theo Daily Mail)


Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

Bài thuốc về trái đậu bắp chữa bệnh tiểu đường

        Lấy hai trái đậu bắp, cắt bỏ một tí đầu và đuôi, sau đó, cắt đôi theo chiều dọc rồi cho vào ngâm trong ly nước nguội, đậy lại qua đêm. Sáng hôm sau, trước khi ăn sáng, vớt bỏ hai trái đậu bắp ra rồi uống hết ly nước ngâm đó. Uống mỗi ngày, sau hai tuần sẽ thấy đường trong máu xuống một cách không ngờ.

Giải thích công dụng của bài thuốc:
        Theo nghiên cứu khoa học chất nhầy trong đậu bắp chứa thành phần chất xơ hoà tan và những hoạt chất quan trọng khác nên có thể đã cho tác dụng ổn định đường huyết. Một số tài liệu y khoa cũng đã kết luận chất xơ hoà tan có tác dụng tốt trong ổn định đường huyết. Chất nhầy trong đậu bắp tiết ra thông qua những mặt cắt ngang, dọc thân trái và dễ hoà tan vào môi trường nước, kể cả nước ở nhiệt độ thường. Qua nhiều giờ ngâm, chất nhầy hoà tan vào nước biểu thị rõ bằng độ sánh trong nước tăng lên. Lượng chất nhầy trong trái non cao hơn nhiều so với thân hay lá.

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2015

Tiết lộ chấn động về thuốc Tây Y và phương pháp điều trị ung thư

      
       Để mở đầu bài viết xin trích dẫn câu nói khá nổi tiếng ” Ngàn lần nói sai thành chân lý”, đa số chúng ta khi sinh ra tới khi chết đi nếu bạn không tinh ý bạn sẽ bị dẫn dắt bởi giáo dục, truyền thông đang hàng ngày “tẩy não” chúng ta một cách hết sức tinh vi và có hệ thống.
         Tây Y (Western medecine) đã tiến bộ và phát triển mạnh mẽ trong khoảng 100 năm trở lại đây, Bên cạnh những thành tựu xuất sắc, đặc biệt của các trị liệu bằng phẫu thuật, vi phẫu thuật, đặt implant, thay ghép tạng, sử dụng tế bào mầm v.v…người ta nhận ra là vẫn có một bộ phận của Tây Y trở nên ì ạch không phát triển gì nhiều. Đó là sự tồn đọng của nhiều bệnh (thường gặp) mà nguyên nhân vẫn còn không được biết rõ! Và vì thế, những trị liệu hiện nay chỉ có tính cách trị triệu chứng (symptom relief) hoặc trị liệu tạm thời (palliative care). Ví dụ bệnh suyễn, bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh vảy nến, bệnh vảy cá (ichthyosis) v.v và v.v…nhất là Tây Y chưa giải quyết được một bệnh ác tính đang tăng nhanh trong thời đại này, đó là bệnh ung thư.
Khi nhìn về y học cổ truyền, thì người ta lại nhận ra rằng y học cổ truyền đã thất lạc mất rồi. Dù đã được phục hồi phần nào trong thời gian gần đây nhưng nền y học cổ truyền đã bị thất lạc rất nhiều kiến thức mà nó đã xây dựng qua hàng ngàn thế kỷ! Điều đáng sợ, là không phải nền y học cổ truyền tự nó suy tàn, mà nó đã bị “bức tử” trong đầu thế kỷ 20.
          Có thông tin cho rằng chính giới tài phiệt của nước Mỹ, vì cạnh tranh, đã tiêu diệt nền y học cổ truyền với mục đích kiếm lợi!
          Dĩ nhiên một người sáng suốt sẽ không quá khích (như những người chủ trương thuyết âm mưu) cho rằng nền Tây Y là không giá trị. Ngược lại, phải thấy rõ cái vĩ đại mà ngành Y bây giờ đã đạt được trong thời gian ngắn khoảng 100 năm trở lại đây. Phải thấy biết ơn những gì mà giới tư bản đã đóng góp cho các trường Y trên thế giới, giúp ngành Y có được những thành tựu như ngày nay.
          Nhưng, không vì thế, mà ta không biết một chút về mặt trái của tư bản, của cái gọi là Quỹ Rockefeller.Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ- FDA
“Vấn đề của các hệ thống y tế là nó được điều hành bởi các nhà tài phiệt để phục vụ cho các mục đích tài chính. Nó chẳng sinh lợi gì trừ khi có người bị bệnh, do đó toàn bộ hệ thống y tế được thiết kế để làm con người càng ngày càng bệnh tật nhiều hơn.”
(Tiến sĩ bác sĩ Guylain Lanctor, tác giả của ‘The Medical Mafia: How to Get Out of It Alive and Take Back Our Health & Wealth’ )
           Việc tẩy não quần chúng được ngành Dược được bắt đầu rất sớm.
“Ai nắm giữ quá khứ sẽ kiểm soát tương lai. Ai nắm giữ hiện tại sẽ tóm gọn quá khứ” phải có sự hiểu biết cặn kẽ về Cục Quản lý Thuốc và Thực Phẩm Hoa Kỳ (US FDA), nhất là về những cộng sự và lịch sử tăm tối của Cục - (George Orwell’s in "Nineteen eighty four") Cục quản lý thuốc và thực phẩm (F.D.A) lúc mới bắt đầu thành lập chỉ là một ban quản lý hóa chất (Division of Chemistry), thời gian sau được gọi là Cục quản lý hóa chất (Bureau of Chemistry), mãi về sau mới đổi tên thành F.D.A.. Cái tên đã được thay đổi nhằm che dấu các dự án hóa chất công nghiệp. Cơ quan này cấp cho các công ty tư cách pháp lý để đưa hóa chất vào thực phẩm và giúp các hãng dược phẩm bằng cách chứng nhận “được FDA chấp thuận”. Người dân sẽ không có bằng chứng pháp lý nào để chống lại ngành công nghiệp hóa chất được.
Công việc thực sự của nó đã và đang làm là “thông qua” hoặc “xử phạt” những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp hóa chất. Và với quyền lực này, nó che dấu một cách hợp pháp cho những hóa chất trong ngành công nghiệp, bằng cách tuyên bố …cái gì mới là “an toàn”.
          Nó đều đặn chia sẻ những dữ liệu được bảo mật với các nghiệp đoàn hóa học cộng sự, để làm giảm nhẹ trách nhiệm. Ví dụ, những thông tin ô nhiễm mà họ đã ém nhẹm trước công chúng. Đây là những vấn đề thuộc “quan hệ công chúng”
Mô hình F.D.A hiện đại hơn được tiến hành vào năm 1913—trong cùng một thời điểm thành lập ra quỹ Rockefeller. Tay nắm tay, FDA – Quỹ Rockefeller và Hiệp hội y tế Hoa Kỳ (AMA) cùng nhau hoạt động sát cánh.
           Quỹ Rockefeller được thành lập vào năm 1913, với mục đích trọng yếu là nhắm vào lãnh vực y học và đào tạo y khoa. Tài trợ ban đầu của Rockefeller cho trường y đạt trên 550.000.000 dollar. Chỉ trong năm 1928, Quỹ Rockefeller đã tài trợ tiền cho 18 trường Y trên khắp 14 quốc gia. Từ đó, những cộng sự của Rockefeller tại FDA đã bắt đầu thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt với tất cả các loại thuốc nào được coi là “đối lập” với ngành công nghiệp hóa chất.
          “Tôi sẽ không đời nào công nhận mọi loại thuốc mới nào, trừ phi loại thuốc ấy đến từ một hãng dược khổng lồ với những nguồn tài chính vô hạn. “ - Tiến sĩ Richard J.Crout, giám đốc của cục quản lý thuốc của FDA (Spotlight, 18 tháng 1, 1982)
Các loại thảo dược bị đàn áp là tất cả thứ mà FDA không thể kiểm soát, và khống chế bằng các tấm bằng sáng chế (patent). Thuốc từ tự nhiên sẽ chẳng bao giờ có thể được cấp bằng sáng chế cả! Đó là lý do tại sao tất cả các liệu pháp thiên nhiên và không gây độc hại hiển nhiên trở thành “thuốc bịp bơm” theo cách gọi của FDA, của ngành công nghiệp hóa chất, và của ngành y! Ngược lại chỉ có những hóa chất trái với tự nhiên (như phi hữu cơ và chất độc ) là có thể được cấp bằng sáng chế, và những loại thuốc không chứa độc tố được xem là một mối đe dọa trong việc kinh doanh thuốc.
“FDA bảo vệ các tập đoàn dược phẩm lớn, sau đó được nhận lại sự khen thưởng. FDA sử dụng quyền lực của chính phủ, họ tấn công những ai gây nguy hại cho các hãng dược lớn. Người dân nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Nhưng không phải thế!. Những gì mà FDA đang làm và những gì mà người dân tưởng như vậy, thực sự hoàn toàn trái ngược như ngày với đêm.” (Tiến sĩ Herbert Ley, cựu thành viên hội đồng của FDA)
“Vào năm 1919, việc Rockefeller trao tặng một số trường y ở Canada 5.000.000 dollar đã góp phần tạo nên nền giáo dục y khoa Canada đến tận thế kỷ 20.
               Y học thời đó làm gì có cái thị trường sinh ra lợi lộc như bây giờ, thế nên các trường y đã phải nương nhờ vào các khoản viện trợ của Rockefeller (dành cho những trường đào tạo đạt yêu cầu). Ngành Y nhận tài trợ và chấp nhận điều kiện của Rockefeller là phải tuân thủ các quy định:
         - Một là, từ bỏ các thể loại y học cổ truyền thống và các dược liệu tự nhiên, thay vào đó là một thế hệ mới các sản phẩm thuốc từ các dẫn xuất hóa học.
        - Hai là phải xóa bỏ toàn bộ nền y học của quá khứ. Điều gì đã xảy ra để khơi mào cho nạn đốt sách ở khắp nơi? Trong một vài trường hợp, chính FDA đã thiêu hủy sách. Quả là một thời kỳ gian nan cho các bác sĩ theo truyền thống trị liệu tự nhiên (traditional naturalpathic)
         Nhà tài phiệt Rockefeller.Tất cả những ai bất đồng chính kiến, cố nắm giữ quá khứ, có quan điểm tổng quan (holistic), dùng các liệu pháp thiên nhiên để chữa bệnh, từ nay sẽ được xem như bị quỷ ám, một dạng “lang băm” đối với hệ thống đào tạo y khoa chính quy, dù cho đó có là những “lang băm” từng đoạt giải Nobel y học, và kết quả thu được sâu rộng đến chừng nào.…
          Có các vitamin hay sữa tươi có thể thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Điều đó có nghĩa là có khi chỉ cần thực dưỡng mà chẳng cần phải có các bác sĩ với những phương pháp chữa bệnh nào nữa. Thực dưỡng như vậy là bất hợp pháp, dù bằng cách này hay cách khác, vì chẳng có một phương pháp thực dưỡng nào được “chấp thuận” cả.
          Đã có một mối quan hệ bất chính được hình thành giữa hiệp hội Y học Hoa Kỳ, FDA, và Quỹ Rockefeller. Để đảm bảo sự tuân thủ hợp đồng của các trường Y, quỹ Rockefeller thường xuyên nhấn mạnh các trường Y phải đặt nhân viên của Quỹ Rockefeller vào ban giám đốc điều hành.
          Hệ thống pháp lý mới củng cố sự độc quyền của ngành Y, cùng với sự độc quyền ở lĩnh vực công nghiệp hóa dầu của Rockefeller trong quá khứ. Thay vì chỉ sở hữu tất cả các nguồn dầu khí, đế chế Rockefeller hiện nay đã kiểm soát hầu hết tất cả các loại thuốc men tiêu dùng. Nó sở hữu vị chúa sơn lâm, được gọi là “công nghiệp dược phẩm”, mà trước đây là ngành công nghiệp hóa chất. Lại một lần nữa, thuốc men sẽ được kiểm soát và điều chế để chống lại người dân Mỹ. Hệ thống từ đó phân nhánh vươn ra trên toàn thế giới.
           Suốt cả cuộc đời, ngài John D. Rockefeller đã từ chối uống loại thuốc thế hệ mới! Trái lại, cả đời ngài lại sử dụng những phương pháp có tính toàn diện của y học truyền thống cho mục đích sức khỏe của chính mình. Nhiều người bạn của ngài tại FDA và AMA cũng cùng một kiểu như thế.
           Sau khi Rockefeller cưỡng chiếm các trường Y, thì các bệnh chết người như bại liệt- tim- và ung thư thực sự bùng phát.
            Từng có một chuyên gia u não chiễm trệ trong phòng khách của tôi bảo với tôi rằng, anh ta sẽ chẳng bao giờ xạ trị, nếu như chẳng may bị u não đi nữa. Và tôi hỏi anh ta rằng, “thế chẳng phải anh vẫn chuyển người ta đến khu xạ trị sao?” anh ta điềm nhiên trả lời “ phải thế thôi, nếu không tôi sẽ bị tống cổ khỏi bệnh viện” (Tiến sĩ, bác sĩ Ralph Moss.)
            Nếu mắc bệnh ung thư thì: 90% bác sĩ ung thư học (oncologist) sẽ không bao giờ chấp nhận chiếu xạ cho ung thư phổi. 84% sẽ không chấp nhận hóa trị cho ung thư đại tràng. Nghiên cứu của đại học Harvard được công bố tại viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ : “Có sự khác biệt về sự thuận tình chấp nhận các liệu pháp kháng ung thư của các bác sĩ chuyên khoa ung thư khi chính họ bị bệnh”Xạ trị, hóa trị những điều bạn chưa biết:
          - Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
          - 100% quá trình điều trị đều độc hại.Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng.Cụm từ ‘điều trị thành công’ được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
           “Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhận ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ nửa năm đến 12 năm. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” (Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley).
            Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư. Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
              Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’(do thầy thuốc). Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
             “Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bện bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp nhiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu" (Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond}
Tiến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần thắng Linus Pauling ở giải Nobel tại Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng nghiên cứu so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
                “Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” – TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
                Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.
                   Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
                   Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị)
                    Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn. Ngay từ khi còn là sinh viên các bác sĩ đã nhận quà của Big Pharma, càng về sau sự nghiệp thì những món quà này càng lớn hơn.
Các bác sĩ chuyên khoa khác chỉ đơn giản là viết toa thuốc, nhưng riêng bác sĩ chuyên khoa ung bướu (trị ung thư) có lợi nhuận cao hầu nhờ mua sỉ các loại thuốc chống ung thư trên thị trường, và bán chúng cho bệnh nhân với giá trên trời. Họ cho bệnh nhân biết rằng những người này sẽ chết nếu không có thuốc.
(NBC Nightly News story- Các bác sĩ khoa ung thư thu lợi nhuận từ các thuốc hóa trị liệu. )
                      “Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở đất nước này chết vì hóa trị. Liệu pháp hóa trị không trị hết ung thư vú, ung thư đại tràng hay ung thư phổi. Sự thực này đã được ghi nhận trong hơn một thập kỷ qua, nhưng các bác sĩ vẫn áp dụng hóa trị đối với những khối u loại này. Nữ giới bị ung thư vú có nguy cơ chết nhanh hơn là không có hóa trị.” (Bác sĩ y khoa Alan Levin).
                     “Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ (The American Cancer Society) đã cố gắng hủy đi nền tảng nghiên cứu của tôi”. (Tiến sĩ Albert Szent-Gyorgyi, người nghiên cứu những đột phá của vitamin C, người chiến thắng giải Nobel Y học năm 1937 ). ​Hiệp Hội Ung Thư Hoa Kỳ – The American Cancer Society. Bạn đoán thử xem tổ chức này được thành lập khi nào và và bởi ai ?
                     Tổ chức này được thành lập bởi John. D. Rockefeller Jr., trong năm 1931 màu nhiệm, cùng với thời điểm khi ngài “hiến tặng” tài sản cho đại học Havard. Bạn có tin rằng một ngày đẹp trời nào đó, họ sẽ công bố phương pháp chữa lành bệnh ung thư, và vứt bỏ chiếc xe tải chất hàng đống tiền của mình không? Và bạn sẽ hiểu tại sao vitamin C lại đe dọa đến sứ mệnh của họ?
                     Chúng ta được giáo dục để tin vào “kỳ tích” của hóa dược hiện đại, là vượt trội hơn so với các loại thảo dược truyền thống. Nhưng, cái mà họ không đề cập đến là khoảng từ 50-70% thành phần hóa học của thuốc hiện đại được trích từ các thành phần thảo dược. Chính các hợp chất hữu cơ ấy là lý do tại sao một số loại hóa dược đôi khi lại có hiệu quả!
                      Theo ghi nhận của ủy ban điều tra dân số Hoa Kỳ, ung thư là sát thủ đứng thứ 2 ở nước Mỹ, nhưng hầu hết những ca tử vong là do phương pháp điều trị, chứ không phải do bệnh ung thư. Các loại dược phẩm là kẻ giết người đứng thứ 4. Nước Mỹ sở hữu một hệ thống y tế nguy hiểm và đắt tiền nhất thế giới. Hệ thống này tạo ra 60% tất cả các vụ phá sản tại nước Mỹ.
                      “Không chỉ có một, mà còn rất là nhiều những phương pháp chữa trị cho bệnh ung thư. Nhưng tất cả những phương pháp còn lại đều bị ACS, NCI và các trung tâm ung thư lớn đàn áp. Bởi hiện tại họ đang có quá nhiều lợi nhuận trong chuyện này”.
(Tiến sĩ, bác sĩ y khoa, tác giả của “chế độ ăn kiêng Atkins”.)  Sưu tầm

Kính gửi quý vị
        Xin cám ơn rất nhiều về tài liệu quý giá về FDA-Rockfeller etc Tôi có nói chuyện này với các bạn người Pháp, họ muốn đọc tài liệu này bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, xin quý vị làm ơn gửi cho tôi bản Pháp ngữ hoặc Anh ngữ.
Tại Pháp có cuốn sách của Claire Séverac đề cập về vấn đề này : Complot mondial contre la santé (âm mưu toàn cầu chống sức khỏe)
http://info-resistance.org/livres/co...ntre-la-sante/ nhưng bản tiếng Việt của quý vị chuyển có nhiều chi tiết quan trọng mà sách của Claire Séverac không nhắc đến
Xin cám ơn trước
                                                                                           Nguyễn Đình Nhân