Người bệnh có khả năng
lây bệnh chừng nào mà máu và dịch tiết của họ còn chứa vi rút. Đã phân lập được
vi rút Ebola từ tinh dịch của một nam giới bị nhiễm trong phòng thí nghiệm 61
ngày sau khi bệnh khởi phát.
Bệnh Ebola xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1976 tại hai ổ dịch đồng thời ở
Nzara, Sudan và ở Yambuku, Cộng hòa dân chủ Congo. Ổ dịch thứ hai là ở một khu
làng nằm gần con sông Ebola và được đặt theo tên con sông này.
Ebolavirus là 1 trong 3 giống vi rút thuộc họ Filoviridae (filovirus), cùng họ
với Marburgvirus và Cuevavirus. Ebolavirus bao gồm 5 loài khác nhau:
- Bundibugyo ebolavirus (BDBV)
- Zaire ebolavirus (EBOV)
- Reston ebolavirus (RESTV)
- Sudan ebolavirus (SUDV)
- Taï Forest ebolavirus (TAFV).
BDBV, EBOV, và SUDV đều có liên quan với những ổ dịch bệnh Ebola lớn ở châu
Phi, trong khi RESTV và TAFV thì không.
Loài RESTV, đã được phát hiện ở Philippines và Trung Quốc, có thể nhiễm cho
người, nhưng cho đến nay chưa có báo cáo nào về ca bệnh hoặc tử vong ở người do
loài này.
Lây truyền
Ebola xuất hiện trên người thông
qua tiếp xúc gần gũi với máu, dịch tiết, phủ tạng hoặc các dịch cơ thể khác của
động vật nhiễm bệnh. Ở châu Phi, đã ghi nhận tình trạng nhiễm bệnh xảy ra do
vận chuyển tinh tinh, đười ươi, dơi ăn quả, khỉ, linh dương rừng và nhím ốm
bệnh hoặc chết hoặc trong rừng nhiệt đới.
Sau đó Ebola lan truyền trong
cộng đồng thông qua lây nhiễm từ người sang người, với nhiễm trùng là hậu quả
của tiếp xúc trực tiếp (qua vết thương hở trên da hoặc niêm mạc) với máu, dịch
tiết, phủ tạng hoặc các dịch cơ thể khác của người bệnh, và qua tiếp xúc gián
tiếp với môi trường bị ô nhiễm những loại dịch này.
Những đám tang trong đó người
tham dự có tiếp xúc trực tiếp với thi hài của người quá cố cũng đóng vai trò
trong lây truyền Ebola.
Nam giới đã khỏi bệnh vẫn có thể
lây truyền vi rút qua tinh dịch trong tới 7 tuần sau khi bình phục.
Các nhân viên y tế rất hay bị
lây nhiễm trong khi điều trị cho bệnh nhân nghi ngờ hoặc chắc chắn bị Ebola.
Lây nhiễm xảy ra thông qua tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân khi các biện pháp
phòng ngừa không được thực hiện nghiêm ngặt.
Dấu hiệu và triệu chứng
Bệnh Ebola là một bệnh vi rút cấp
tính nặng thường điển hình bởi sốt cao đột ngột, cực kỳ mệt mỏi, đau cơ, đau
đầu và đau họng. Tiếp theo là nôn, tiêu chảy, suy chức năng thận và gan, và ở
một số trường hợp xuất huyết nội và ngoại. Kết quả cận lâm sàng bao gồm giảm
bạch cầu và tiểu cầu và tăng men gan.
Người bệnh có khả năng lây bệnh
chừng nào mà máu và dịch tiết của họ còn chứa vi rút. Đã phân lập được vi rút
Ebola từ tinh dịch của một nam giới bị nhiễm trong phòng thí nghiệm 61 ngày sau
khi bệnh khởi phát.
Thời gian ủ bệnh, nghĩa là thời
gian từ khi nhiễm vi rút đến khi xuất hiện triệu chứng, là từ 2 – 21 ngày.
Chẩn đoán
Các bệnh khác cần loại trừ trước
khi đưa ra chẩn đoán bệnh Ebola bao gồm: sốt rét, thương hàn, lỵ trực trùng,
tả, bệnh leptospira, dịch hạcplague, bệnh rickettsia, sốt hồi quy, viêm màng
não, viêm gan và các bệnh sốt xuất huyết do vi rút khác.
Có thể chẩn đoán xác định nhiễm
vi rút Ebola trong phòng thí nghiệm thông qua nhiều loại xét nghiệm như xét
nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym (ELISA); xét nghiệm phát hiện kháng
nguyên; xét nghiệm trung hòa huyết thanh; xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase
phiên mã ngược (RT-PCR); soi kính hiển vi điện tử; phân lập vi rút bằng nuôi
cấy tế bào.
Các mẫu bệnh phẩm từ bệnh nhân có
nguy cơ sinh học cực kỳ lớn; việc xét nghiệm cần được tiến hành trong điều kiện
an toàn sinh học tối đa.
Vắc xin và điều trị
Hiện chưa có vắc xin nào cho
bệnh Ebola. Nhiều vắc xin đang được thử nghiệm nhưng chưa có loại nào được sử
dụng trên lâm sàng.
Những bệnh nhân nặng cần được
chăm sóc hỗ trợ tích cực. Bệnh nhân thường bị mất nước và cần bù nước đường
uống bằng các dung dịch chứa chất điện giải hoặc bằng dịch truyền tĩnh mạch.
Bệnh chưa có cách điều trị đặc
hiệu. Một số phác đồ thuốc mới đang được đánh giá.
Vật chủ tự nhiên của vi
rút Ebola
Ở châu Phi, dơi ăn quả, nhất là
các loài thuộc giống Hypsignathus monstrosus, Epomops franqueti và Myonycteris
torquata, được xem là vật chủ tự nhiên của vi rút Ebola. Hệ quả là phân bố địa
lý của vi rút Ebola có thể trùng với phạm vi hoạt động của dơi.
Phòng chống
Giảm nguy cơ nhiễm Ebola trên người
Trong bối cảnh chưa có biện pháp điều trị hiệu quả và chưa có vắc xin cho
người, việc nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ gây nhiễm Ebola và các
biện pháp bảo vệ cá nhân là cách duy nhất để giảm nhiễm bệnh và tử vong ở
người.
Ở các vùng dịch bệnh Ebola, thông điệp về giáo dục cộng đồng để giảm nguy cơ
tập trung vào những yếu tố sau:
- Giảm nguy cơ lây bệnh từ động vật hoang dã sang người qua tiếp xúc với dơi ăn
quả hoặc khỉ/linh trưởng nhiễm bệnh và ăn thịt sống của chúng. Khi xử lý động
vật cần mang găng và quần áo bảo hộ thích hợp. Các sản phẩm từ động vật (máu và
thịt) cần được nấu kỹ trước khi ăn.
- Giảm nguy cơ lây bệnh từ người sang người trong cộng đồng do tiếp xúc trực
tiếp hoặc tiếp xúc gần với người bệnh, nhất là với dịch cơ thể của người bệnh.
Cần tránh tiếp xúc cơ thể gần với bệnh nhân Ebola.
Nên mang găng tay và trang thiết bị bảo vệ cá nhân thích hợp khi chăm sóc cho
người bệnh tại nhà.
Rửa tay thường xuyên sau khi đi thăm bệnh nhân ở bệnh viện, cũng như sau khi
chăm sóc người bệnh tại nhà.
-Những cộng đồng bị Ebola cần thông tin cho người dân về tính chất của bệnh và
về các biện pháp kiềm chế dịch bệnh, bao gồm việc mai tang người chết. Những
người bị chết do Ebola cần được mai táng kịp thời và an toàn.
Các trang trại lợn ở châu Phi có thể đóng vai trò tăng qui mô dịch bệnh do sự
có mặt của dơi ăn quả ở những trang trại này. Cần áp dụng các biện pháp an toàn
sinh học thích hợp để hạn chế lây nhiễm.
Đối với RESTV, chú trọng việc giảm nguy cơ lây truyền bệnh từ lợn sang người do
công tác chăn nuôi và giết mổ động vật không an toàn, cũng như việc tiêu thụ
không an toàn các sản phẩm máu tươi, sữa sống hoặc thịt động vật. Cần mang găng
và quần áo bảo hộ thích hợp khi xử lý động vật bệnh hoặc mô động vật và khi
giết mổ động vật. Ở những vùng đã có báo cáo về RESTV trên lợn, tất cả các sản
phẩm động vật (máu, thịt và sữa) đều phải được nấu chín trước khi ăn.
Phòng chống lây nhiễm tại cơ sở y tế
Lây truyền vi rút Ebola từ người sang người chủ yếu liên quan với tiếp xúc trực
tiếp với máu và dịch cơ thể. Đã có báo cáo về lây nhiễm ở nhân viên y tế khi
không có những biện pháp phòng chống thích hợp.
Không phải lúc nào cũng xác định được bệnh nhân Ebola sớm do các triệu chứng
ban đầu thường không đặc hiệu. Do đó, các nhân viên y tế cần áp dụng các biện
pháp phòng chống trước mọi bệnh nhân – bất kể chẩn đoán là gì - ở mọi lúc và
mọi nơi.
Những biện pháp này bao gồm vệ sinh tay, vệ sinh đường hô hấp, sử dụng trang bị
bảo hộ cá nhân (theo nguy cơ phát tán hoặc tiếp xúc khác với vật liệu nhiễm),
thực hành tiêm chích an toàn và thực hành mai táng an toàn.
Ngoài những biện pháp cơ bản nêu trên, nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi
ngờ hoặc chắc chắn nhiễm vi rút Ebola cần áp dụng thêm những biện pháp phòng
chống lây nhiễm khác để tránh mọi phơi nhiễm với máu và dịch cơ thể của bệnh
nhân và tiếp xúc trực tiếp không có biện pháp bảo vệ với môi trường ô nhiễm.
Khi tiếp xúc gần (trong vòng 1 mét) với bệnh nhân Ebola, nhân viên y tế cần
mang trang bị bảo vệ mặt (tấm chắn hoặc khẩu trang y tế và kính bảo hộ), áo
choàng dài sạch không cần vô trùng và găng (găng vô trùng đối với một số thủ
thuật).
Nhân viên phòng thí nghiệm cũng có nguy cơ. Mẫu bệnh phẩm lấy từ động vật và
người nghi nhiễm Ebola cần được vận chuyển bởi nhân viên được đào tạo và xử lý
tại phòng thí nghiệm có trang bị thích hợp.
Theo
Dân Trí